Giấc ngủ chiếm 1/4 đến 1/3 trong toàn bộ tuổi thọ của con người. Nhưng chính xác thì giấc ngủ là gì và nó từ đâu đến? Điều gì sẽ xảy ra khi bạn ngủ? Dưới đây là những thông tin hữu ích giúp bạn hiểu rõ hơn về giấc ngủ
1. Giấc ngủ là gì, nó từ đâu đến?
Hầu hết mọi người đều cho rằng giấc ngủ là một hoạt động thụ động mà khi đó cơ thể và não bộ không hoạt động. “Nhưng thực chất cho thấy não bộ đang tham gia vào một số hoạt động cần thiết của chính cuộc sống của con người trong suốt một chu trình giấc ngủ- có liên quan rất chặt chẽ đến chất lượng cuộc sống của con người chúng ta”. Ngủ là một trạng thái mà nhận thức đối với các kích thích của môi trường bị giảm sút. Ngủ khác với trạng thái hôn mê, ngủ đông và chết bởi thực tế là nó có thể được đảo ngược nhanh chóng.
Ngủ là một hành vi sinh lý phổ biến ở tất cả các loài động vật. Nó hình thành khoảng một phần ba cuộc đời con người. Người ta không biết rõ ràng các chức năng chính xác của giấc ngủ nhưng nó dường như là điều cần thiết để tồn tại vì thiếu ngủ kéo dài dẫn đến suy giảm thể chất nghiêm trọng, sau đó là mất nhận thức và cuối cùng là tử vong.
Các hóa chất truyền tín hiệu thần kinh được gọi là chất dẫn truyền thần kinh kiểm soát việc chúng ta đang ngủ hay đang thức bằng cách tác động lên các nhóm tế bào thần kinh hoặc tế bào thần kinh khác nhau trong não bộ con người. Các tế bào thần kinh trong thân não, kết nối não với tủy sống, sản xuất chất dẫn truyền thần kinh như serotonin và norepinephrine giúp giữ cho một số bộ phận của não hoạt động trong khi chúng ta thức. Các tế bào thần kinh khác ở đáy não bắt đầu phát tín hiệu khi chúng ta chìm vào giấc ngủ. Những tế bào thần kinh này dường như “tắt” các tín hiệu giúp chúng ta tỉnh táo. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng một chất hóa học có tên là adenosine tích tụ trong máu khi chúng ta thức và gây buồn ngủ. Hóa chất này dần dần bị phá vỡ trong khi chúng ta ngủ.
2. Giấc ngủ quan trọng đối với sức khoẻ của chúng ta, vì sao?
Giấc ngủ và các vấn đề liên quan đến giấc ngủ đóng một vai trò trong một số lượng lớn các rối loạn của con người và ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực y học. Ví dụ, các vấn đề như đột quỵ và cơn hen suyễn có xu hướng xảy ra thường xuyên hơn vào ban đêm và sáng sớm, có lẽ do sự thay đổi của hormone, nhịp tim và các đặc điểm khác liên quan đến giấc ngủ. Một số loại động kinh có thể liên quan đến giấc ngủ theo những cách phức tạp. Giấc ngủ REM dường như giúp ngăn chặn các cơn động kinh bắt đầu từ một phần não lan sang các vùng não khác, trong khi giấc ngủ sâu có thể thúc đẩy sự lây lan của các cơn động kinh này. Thiếu ngủ cũng gây ra các cơn co giật ở những người mắc một số loại động kinh.
3. Tác động của giấc ngủ đến hệ thống miễn dịch
Các tế bào thần kinh kiểm soát giấc ngủ cũng là các tế bào thần kinh tương tác chặt chẽ với hệ thống miễn dịch. Như bất kỳ ai bị cúm đều biết, các bệnh truyền nhiễm có xu hướng khiến chúng ta cảm thấy buồn ngủ. Điều này có thể xảy ra bởi vì cytokine, hóa chất mà hệ thống miễn dịch của chúng ta tạo ra trong khi chống lại nhiễm trùng, là những hóa chất gây ngủ mạnh. Giấc ngủ có thể giúp cơ thể bảo tồn năng lượng và các nguồn lực khác mà hệ thống miễn dịch cần để tấn công.
4. Một số vấn đề về giấc ngủ và rối loạn tâm thần
Các vấn đề về giấc ngủ xảy ra ở hầu hết những người bị rối loạn tâm thần, bao gồm cả những người bị trầm cảm và tâm thần phân liệt. Ví dụ, những người bị trầm cảm thường thức dậy vào đầu giờ sáng và thấy mình không thể ngủ lại được. Thời lượng ngủ của một người cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến các triệu chứng của rối loạn tâm thần. Trong khi thiếu ngủ có thể gây ra trầm cảm ở người bình thường thì nó lại là một liệu pháp khá hiệu quả cho những người mắc một số loại trầm cảm. Cực đoan thiếu ngủ có thể dẫn đến tình trạng dường như tâm thần hoang tưởng và ảo giác ở những người khỏe mạnh khác, và giấc ngủ gián đoạn có thể kích hoạt cơn hưng (kích động và hiếu động thái quá) ở những người bị trầm cảm hưng.
Các vấn đề về giấc ngủ thường gặp ở nhiều chứng rối loạn khác, bao gồm bệnh Alzheimer, bệnh đột quỵ, bệnh ung thư và chấn thương đầu. Những vấn đề về giấc ngủ này có thể phát sinh do những thay đổi trong vùng não và chất dẫn truyền thần kinh kiểm soát giấc ngủ, hoặc có thể đến từ các loại thuốc sử dụng để kiểm soát các triệu chứng của các rối loạn hoặc bệnh khác. Ở những bệnh nhân đang nằm viện hoặc được chăm sóc 24/24, lịch trình điều trị hoặc thói quen của bệnh viện cũng có thể làm rối loạn giấc ngủ. Câu chuyện cổ tích về một bệnh nhân bị y tá đánh thức để anh ta uống thuốc ngủ chứa một hạt của sự thật. Một khi các vấn đề về giấc ngủ phát triển, chúng có thể thêm vào sự suy yếu của một người và gây ra sự nhầm lẫn, thất vọng hoặc trầm cảm. Bệnh nhân không ngủ được cũng thấy đau nhiều hơn và có thể tăng yêu cầu dùng thuốc giảm đau. Quản lý tốt hơn các vấn đề về giấc ngủ ở những người mắc các chứng rối loạn khác có thể cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân này.